Pháp Luân Công và những lợi ích sức khỏe – Phần 3
Bài viết của học viên tại Hoa Kỳ, Ban Biên tập chỉnh lý
[MINH HUỆ 28-04-2003] Pháp Luân Công (Pháp Luân Đại Pháp) là phương pháp tu luyện ở tầng thứ cao do Đại sư Lý Hồng Chí truyền ra công chúng, là công pháp tính mệnh song tu (tu luyện cả tâm lẫn thân), lấy đặc tính tối cao của vũ trụ “Chân-Thiện-Nhẫn” làm nguyên tắc chỉ đạo. Tính mệnh song tu, nói đơn giản: tu “tính” chính là tu tâm dưỡng tính, lấy “Chân-Thiện-Nhẫn” làm tiêu chuẩn chỉ đạo cuộc sống hàng ngày, nâng cao phẩm chất đạo đức của người tu luyện; tu “mệnh” là luyện năm bài công pháp để đạt được mục đích trị bệnh khỏe người, kéo dài tuổi thọ.
Giải thích từ góc độ y học hiện đại, Pháp Luân Công (Pháp Luân Đại Pháp) mà Đại sư Lý Hồng Chí truyền ra công chúng là một hệ thống tự chăm sóc sức khỏe về nhiều phương diện, từ thể chất (BODY) đến tinh thần (MIND). Từ giữa năm 1992, Đại sư Lý Hồng Chí đã công khai truyền thụ Pháp Luân Công ra toàn xã hội, số người tu luyện tăng lên nhanh chóng. Theo điều tra của Chính phủ Trung Quốc vào đầu năm 1999, tại Trung Quốc Đại lục có từ 70 tới 100 triệu người đang tu luyện Pháp Luân Công. Pháp Luân Công còn được hồng truyền đến Hồng Kông, Đài Loan, cho đến hơn 60 quốc gia và địa khu ở Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ và Châu Úc.
(Tiếp theo Phần 2)
V. Nghiên cứu sơ bộ về cơ chế và khả năng trị bệnh khỏe người của tu luyện Pháp Luân Công
Cuộc khảo sát về sức khỏe của các học viên Pháp Luân Công chỉ nói lên phần nào những lợi ích của việc tu luyện Pháp Luân Công. Thực tế là, người tu luyện Pháp Luân Công còn có thể có được nhiều lợi ích hơn thế. Dưới đây là một vài ví dụ thường thấy:
Dễ chịu hơn, đầu óc minh mẫn, không có cảm giác căng thẳng, tràn đầy năng lượng; cai bỏ được thuốc lá cũng như những thói quen xấu khác; đặc biệt thông qua tu luyện mà học được cách dùng thiện ý để giải quyết xung đột giữa người với người, cải thiện quan hệ với người xung quanh; thân thể khỏe mạnh; hiểu rõ những nhân tố cấu thành nên “tự ngã chân chính”; nhận thức được quy luật căn bản của tự nhiên; hiểu được vì sao trong cuộc sống chúng ta lại có ma nạn và biết tận dụng những ma nạn đó để tu luyện bản thân; hiểu được quan hệ giữa tinh thần và vật chất, nỗ lực cải thiện bản thân, thích dành thời gian với một nhóm người thiện lương, bình dị dễ gần, và có chí hướng tương đồng.
Điều dễ thấy là, các học viên Pháp Luân Công đã tránh xa nhiều tật xấu có hại cho sức khỏe, hơn nữa trong tu luyện, họ dần dần không còn chịu áp lực của cuộc sống, thể chất lẫn tinh thần ngày càng khỏe mạnh. Tuy nhiên, nếu bạn hỏi các học viên Pháp Luân Công có phải sức khỏe là mục đích luyện công của họ không, thì câu trả lời có lẽ sẽ khiến bạn ngạc nhiên: “Không, lợi ích sức khỏe chỉ là sản phẩm phụ của công pháp của chúng tôi mà thôi.” Họ có được sản phẩm phụ miễn phí này như thế nào? Cho dù vận dụng phương pháp trị liệu tốt nhất có thể của y học hiện đại, thì cũng phải tốn thời gian cả đời, đầu tư rất nhiều tiền, còn phải gặp được bác sỹ có tài năng thiên phú, mới có thể đạt đến hiệu quả như thế. Vậy, chúng ta có thể giải thích rõ điều này từ góc độ của y học hiện đại hay y học cổ truyền Trung Hoa không?
Cũng như châm cứu, khí công tuy có hiệu quả thần kỳ trong việc trị bệnh khỏe người, nhưng vẫn chưa được y học hiện đại lý giải và tiếp nhận đầy đủ. Nhân tố căn bản khiến châm cứu phát huy tác dụng nằm ở hệ thống kinh lạc mà y học hiện đại vẫn chưa thể thăm dò trực tiếp. Cũng vậy, “khí” và “công” là những khái niệm năng lượng mà y học hiện đại, vốn được xây dựng trên cơ sở hình thái học, vẫn chưa thể lý giải được. Tu luyện khí công vốn chú trọng vào mối quan hệ thống nhất giữa tinh thần – vật chất, tâm lý – sinh lý, con người – tự nhiên, mà đến nay y học hiện đại, vốn bắt nguồn từ cơ sở vật chất, vẫn chưa lý giải nổi. Mặt khác, dù chậm, nhưng khoa học hiện đại đã dần tích lũy được sự hiểu biết về tính thống nhất giữa tinh thần – vật chất, tâm lý – sinh lý; vả lại y học hiện đại hiện đã nhận thức được hiệu quả của khí công đối với sức khỏe thể chất và tinh thần của người tu luyện biểu hiện ở nhiều cấp độ: gen – tế bào – mô – cơ quan nội tạng. Chúng ta hãy tìm hiểu tác dụng trị bệnh khỏe người của tu luyện từ góc độ y học hiện đại và y học cổ truyền Trung Hoa.
1. Nhận thức của y học hiện đại về mối quan hệ giữa thân thể và tinh thần ── y học thân tâm
Y học hiện đại tin vào mô hình sinh lý – tâm lý – xã hội. Sau sáu năm nghiên cứu 170 trường hợp đột tử, năm 1971, George Engel đã quan sát thấy rằng những bệnh nặng, thậm chí là tử vong, cũng có thể có liên quan đến tình trạng căng thẳng hoặc chấn thương tâm lý. Tinh thần căng thẳng có thể dẫn đến nhiều vấn đề về sức khỏe, như bệnh động mạch vành, hen suyễn, viêm loét đại tràng, viêm khớp dạng thấp, nhiễm virus cấp tính, cho đến những bệnh như tăng bạch cầu đơn nhân, ung thư, AIDS, thậm chí khả năng mắc bệnh Alzheimer ở người cao tuổi. Bệnh tật do lối sống không lành mạnh chiếm từ 70% đến 80% tổng số các loại bệnh.
Ví dụ, Hoa Kỳ có khoảng 10% phụ nữ và 20% nam giới cần điều trị chứng nghiện rượu. Mỗi năm có khoảng 200.000 người tử vong do rối loạn thể chất và tinh thần đều có liên quan trực tiếp đến rượu, như: tự sát, ung thư, bệnh tim, và bệnh gan. Nghiện rượu làm giảm tuổi thọ tới gần chục năm. Tổn thất tài chính trực tiếp và gián tiếp đối với xã hội do các chứng rối loạn thể chất và tinh thần ước tính hơn 150 tỷ USD, giá trị tổn thất tính trên đầu người là khoảng 600 USD/năm. Năm 1995, ở Mỹ có khoảng 61 triệu người hút thuốc, trong đó 4,5 triệu là thanh niên. Mỗi năm lại có thêm 170.000 bệnh nhân ung thư phổi mới và 150.000 bệnh nhân ung thư phổi tử vong. Khoảng 80% đến 90% trường hợp ung thư phổi xảy ra ở người hút thuốc. Ở Trung Quốc, hiện có 300 triệu người hút thuốc. Chế độ ăn uống không lành mạnh, thiếu tập luyện, và trầm cảm cũng làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim. Mặc dù hiện đã có công nghệ hiện đại và giáo dục sức khỏe, nhưng mỗi năm vẫn có 400.000 – 500.000 người chết do bệnh động mạch vành. [15]
Chủ đề của tạp chí Science ngày 26 tháng 4 năm 2002 là “Câu đố của những căn bệnh phức tạp, không chỉ là vấn đề của gen“. Bài giới thiệu chuyên đề trong số này mang tiêu đề “Không chỉ là vấn đề gen”, trong đó chỉ ra rằng: “Những căn bệnh thường gặp nhất lại là những căn bệnh khó chữa nhất, như bệnh tim, ung thư, tiểu đường, tâm thần, v.v. Đây đều là những bệnh ‘phức tạp’ hoặc ‘đa nhân tố’, nghĩa là không thể quy hết cho một đột biến gen đơn lẻ hay một yếu tố môi trường đơn thuần nào. Đúng hơn, các loại bệnh này bắt nguồn từ tác động kết hợp của nhiều gen, yếu tố môi trường, và những hành vi không lành mạnh dễ dẫn đến bệnh tật.” Walter C.Willett ở Trường Y tế Công cộng Harvard, trong bài “Cân bằng lối sống và nghiên cứu gen để phòng ngừa bệnh tật”, đã đề cập rằng, “Chúng ta đã có thể xác định những tác nhân làm thay đổi hành vi, như các phương diện cụ thể về chế độ ăn, thừa cân, ít hoạt động, và hút thuốc chiếm hơn 70% số ca đột quỵ và ung thư ruột kết, hơn 80% ca bệnh tim mạch vành, và hơn 90% ca bệnh tiểu đường ở người trưởng thành… … Các phát hiện của nghiên cứu sinh học phân tử hiện đại đã giúp làm sáng tỏ tác động của nhân tố di truyền (gen) đối với nhiều loại bệnh. Những gen đột biến mang tính di truyền cao gây ra cụm bệnh dễ phát hiện trong gia đình, là rất hiếm thấy và có lẽ chỉ chiếm chưa đến 5% số bệnh ung thư chính và bệnh tim mạch vành.… đa số – và có lẽ là phần lớn – các bệnh ung thư nghiêm trọng ở các nhóm người Tây phương là do môi trường hơn là do di truyền.” [16, 17]
Các nhà nghiên cứu phát hiện rằng, so với 20 năm trước, có nhiều bệnh nhân hơn có chuyển biến bệnh tốt khi dùng giả dược. Điều này cho thấy sự căng thẳng trong cuộc sống và môi trường hiện đại có thể là tác nhân gây ra nhiều bệnh về tâm lý hơn. Hai tiến sỹ Torrey và Miller, trong tác phẩm “Bệnh dịch vô hình: Tình trạng gia tăng bệnh tâm thần từ năm 1750 đến nay” đã tổng kết rằng, “Trong những thập niên qua, ít nhất là tại một số nước công nghiệp, đã có những chứng cứ xác thực cho thấy rõ trầm cảm và suy nhược cảm xúc dẫn đến nhiều bệnh truyền nhiễm, thậm chí là những rối loạn tinh thần nghiêm trọng — chứng tâm thần phân liệt” [18]. Cuộc khảo sát “Hiệu ứng hậu 11/9”, nhằm tìm hiểu về phản ứng trước áp lực tâm lý sau vụ tấn công khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001, đã xác nhận một xu thế: ngay cả những người ở cách xa hiện trường cũng có các triệu chứng căng thẳng [19]. Trong những người trả lời phỏng vấn sống ở gần khu vực “Tháp đôi”, có 20% số người trả lời khảo sát cho biết họ có xuất hiện “di chứng hậu chấn thương tâm lý là khá lớn” (hoặc rối loạn căng thẳng hậu chấn thương tâm lý, PTSD) [20]. Một nghiên cứu khác với 988 người sống ở gần khu Manhattan cho thấy, tình trạng hút thuốc, rượu chè, và sử dụng cần sa đã tăng đáng kể, mà điều này có thể liên quan đến các trạng thái tâm lý khác nhau [21]. Theo nghiên cứu của Bộ Giáo dục, trong cuộc khảo sát 1,1 triệu học sinh trường công lập, có khoảng 75.000 trẻ em có biểu hiện từ sáu triệu chứng PTSD trở lên, đủ để được chẩn đoán là rối loạn tâm thần [23, 24].
Những nghiên cứu này đã đủ để kết luận rằng, các yếu tố tâm lý, lối sống, môi trường, và tình hình xã hội có tác động cực kỳ lớn đến trạng thái sinh lý. Tuy nhiên, các biện pháp trị liệu bằng y học hiện đại còn tương đối yếu kém về những phương diện này. Từ những lợi ích mà tu luyện Pháp Luân Công mang lại cho con người như đã đề cập bên trên, không khó để thấy rằng môn tu luyện này đã có ảnh hưởng tích cực rõ rệt đối với người tu luyện ở tất cả các phương diện này.
2. Từ y học cổ truyền Trung Hoa đến thăng hoa trong tu luyện [25]
Từ góc độ y học cổ truyền Trung Hoa, sẽ dễ lý giải hơn về tác dụng của tu luyện khí công trong dưỡng sinh trường sinh, vì đây vốn dĩ là biểu hiện ở các tầng thứ khác nhau của cùng một hệ thống.
Khác với y học hình thể của Tây y, Trung y là một nền y học ở tầng năng lượng. Hệ thống kinh lạc của Trung y là kênh lưu thông năng lượng, tất cả các vật chất trong Trung y đều được gọi bằng một khái niệm năng lượng là “khí”, như vệ khí, huyết khí, dinh khí, tinh khí, khí của tạng phủ, khí của kinh lạc, khí của nước và thực phẩm, v.v.. Cơ quan nội tạng [tiếng Trung là “khí quan”] trong Trung y cũng không phải là khái niệm nội tạng trong giải phẫu học, mà đó là trung tâm năng lượng có công năng đặc biệt, kết nối với thân thể từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới thông qua kinh lạc, và có mối liên hệ mật thiết với các hệ thống bên trong và bên ngoài, hình thành nên cơ sở vật chất cho quan niệm tổng thể của Trung y. Các phương pháp điều trị như châm cứu, xoa bóp, đạo dẫn đều là để điều chỉnh sự mất cân bằng năng lượng. Sự khác biệt căn bản giữa thuốc Bắc và thuốc Tây không chỉ ở tính thiên nhiên so với tính tổng hợp, mà mấu chốt là nó tác động đến sự mất cân bằng năng lượng của cơ thể con người. Do đó, thuốc Bắc được phân loại và sử dụng theo nguyên tắc năng lượng của “tứ khí” (lạnh, mát, ấm, nóng), “ngũ vị” (chua, đắng, ngọt, cay, mặn), và kinh lạc. Chẩn đoán của Trung y cũng phản ánh sự thay đổi về chất, lượng, và hướng đi của các trung tâm năng lượng (khí quan / nội tạng) và các loại năng lượng khác nhau, chẳng hạn như đàm khí ứ kết, khí uất hóa nhiệt, trung khí hạ hãm, can dương thượng cang. Với ý nghĩa này, Trung y, với tư cách là một hệ thống y học hoàn chỉnh ở tầng năng lượng, không phải là một loại “y học thay thế và bổ sung” (alternative and complementary medicine) trong mắt y học hiện đại, mà là một nền y học năng lượng hay y học công năng không thể thiếu.
Thứ hai, Trung y là một nền y học ở không gian vi quan. Người hiện đại thấy Trung y khó hiểu là do các khái niệm của nó khá trừu tượng. Các nhà nghiên cứu y học hiện đại một mặt đã dần dần nhận ra hiệu quả lâm sàng của Trung y, mặt khác lại bó tay trước hệ thống lý luận và các khái niệm cơ bản sờ không thấy, nhìn không được của nó. Điều khiến hầu hết các nhà nghiên cứu kinh ngạc là, Trung y là một hệ thống năng lượng hết sức phức tạp, hoàn chỉnh, có hệ thống, và chính xác, mà hệ thống này lại tồn tại trong một không gian vi quan hơn, các giác quan của con người và công cụ mở rộng của các giác quan (các loại máy móc chính xác) vẫn chưa thể thăm dò được. Thông tin mà Trung y thu được qua “vọng” (nhìn), “văn” (nghe), “vấn” (hỏi), “thiết” (cắt) chính là sự phản ánh bề mặt nhất của không gian vi quan này. Vào thời cổ đại, con người có thể đạt được khả năng nhìn xuyên thấu không gian vi quan của cơ thể người thông qua tu luyện. Trong sách “Chuyển Pháp Luân” có giảng:
“Tại Trung Quốc cổ đại, các bác sỹ trung y nói chung đều có công năng đặc dị, các đại y học gia như Tôn Tư Mạc, Hoa Đà, Lý Thời Trân, Biển Thước, v.v. đều có công năng đặc dị, trong sách y học đều có chép lại. Tuy nhiên hiện nay những điều tinh hoa ấy thường hay bị phê phán; kế thừa của trung y [hiện nay] bất quá chỉ là một chút dược phương, hoặc giả một số dò dẫm kinh nghiệm. Trung y thời Trung Quốc cổ đại rất phát triển, trình độ phát triển vượt xa y học hiện nay.”
Thứ ba, Trung y là một nền y học thống nhất giữa thân và tâm. Trung y giảng: “Tâm vi quân chi quan, tâm bất minh tắc thập nhị quan nguy” (nghĩa là: tâm (tim) là quan (bộ phận) chủ chốt như vua trong triều, tâm không sáng thì 12 quan còn lại sẽ nguy), “Tâm tàng Thần, Phế tàng Phách, Can tàng Hồn, Tỳ tàng Ý, Thận tàng Chí” (nghĩa là: tim là nơi cư ngụ của thần, phổi là nơi cư ngụ của phách, gan là nơi cư ngụ của hồn, tỳ là nơi cư ngụ của ý, thận là nơi cư ngụ của chí), “Hỉ thương tâm, bi thương phế, nộ thương can, tư thương tỳ, khủng thương thận” (Vui quá hại tim, buồn quá hại phổi, giận quá hại gan, lo nghĩ quá hại tỳ, sợ hãi quá hại thận). Trong dưỡng sinh của Trung y, “thanh tâm quả dục” (giữ tâm thanh tịnh và tiết chế dục vọng) là bí quyết trọng yếu để trường thọ. Trung y hiện đại có nhận thức và lý giải rất hạn chế về phạm trù tinh thần, nên phần tinh hoa nhất của Trung y không được kế thừa và phát huy đầy đủ. Vì vậy, các phương pháp điều trị của Trung y hiện đại cũng thường thiếu mất phương diện này. Nguyên nhân của những vấn đề này rất phức tạp. Một trong những nguyên nhân quan trọng là ảnh hưởng của chính trị và ý thức hệ. Với những điều “huyền bí” hơn trong Trung y, người ta không dám đối diện, mà lại coi là “cặn bã” hay “mê tín”, từ đó mất đi cơ hội nghiên cứu và khám phá.
Cuối cùng, cũng là quan trọng nhất, Trung y là một nền y học Thiên nhân hợp nhất (sự hòa hợp giữa Thiên-Địa-Nhân); đây là một trong những tư tưởng cơ bản của Trung y. Thân thể con người là một tiểu vũ trụ, Thiên có ngũ khí, Địa có ngũ hành, Nhân có ngũ chí và ngũ tạng, đều đối ứng với nhau. Trung y đặt tên cho các huyệt vị và mô tả sự biến đổi của các loại năng lượng trong thân thể đều phản ánh điểm đặc trưng này. Người phương Tây nói rằng chẩn đoán của Trung y nghe như dự báo thời tiết, chính là từ đây mà ra.
Tuy nhiên, thân thể con người không chỉ là tồn tại vật chất, mà còn là tồn tại tinh thần, có bản tính, tính khí, và tư tưởng, v.v. Trong phạm trù sức khỏe thể chất của con người, khi tinh thần người ta bình hòa thì khí huyết sẽ thông thuận, cái gọi là “tâm bình khí hòa” chính là ý này. Tuy nhiên, trong cơ thể người, khí là một loại năng lượng hữu hạn và dễ bị tổn hại, nhiều yếu tố có thể khiến khí bị trở ngại, như: khí hư, khí trệ, khí nghịch, khí hãm, khí thoát… đúng như câu: “Khí chi sở chí, bệnh chi sở tồn” (Khí đến đâu, ở đó có bệnh). Do đó, tất cả các phương pháp điều trị và dưỡng sinh đều xoay quanh việc bổ khí, hấp khí, điều khí. Nhưng, khí dù sao vẫn là khí, cuối cùng nó cũng sẽ suy kiệt. Còn năng lượng của vũ trụ lại là vĩnh hằng. Vậy, nếu thân thể người là một tiểu vũ trụ, thì tại sao năng lượng của thân thể người không thể vĩnh hằng? Nếu thân thể người là một tiểu vũ trụ và có tinh thần, vậy thì đại vũ trụ xung quanh ta liệu có phải không chỉ có ngũ hành, ngũ khí, mà còn nên có tinh thần không? Câu trả lời hẳn là có. Nếu một tiểu vũ trụ đồng hóa với tinh thần của đại vũ trụ, liệu có phải cũng sẽ nhận được năng lượng của đại vũ trụ không? Câu trả lời cũng hẳn là có. Do đó, Trung y khi đạt đến cảnh giới cao nhất chính là cái gọi là tu thân dưỡng tính, xem nhẹ danh lợi, thanh tâm quả dục, đạt đến cảnh giới “Bần tiện bất di, phú quý bất dâm, sủng nhục bất kinh, uy vũ bất khuất” (nghèo khó mà không đổi dời, giàu sang mà không dâm loạn, không kinh động dù được sủng ái hay bị vũ nhục, không khuất phục trước quyền uy hay vũ lực), cảnh giới của chí Chân, chí Thiện, và đại Nhẫn. Điều này thực chất đã vượt qua y học và bước vào một phạm trù mới, đó là tu luyện. Một phương pháp tu luyện tính mệnh song tu chân chính có thể giúp người tu luyện đạt đến cảnh giới như vậy. Lúc này, năng lượng của tiểu vũ trụ thân thể người này — khí, sẽ thuận theo sự đồng hóa với đặc tính tinh thần của đại vũ trụ mà chuyển hóa thành năng lượng thuần tịnh hơn, vĩnh hằng hơn — công, từ đó có thể đạt được trạng thái khỏe mạnh và trường thọ. Pháp Luân Công chính là một phương pháp tu luyện như vậy.
Y học hiện đại phương Tây đã nhận thức được tính đa tầng, đa diện của sức khỏe, và đã đề xuất cụ thể mô hình y học mới: mô hình sinh học – tâm lý – xã hội – tâm linh [25]. Khi một người có tâm hồn lành mạnh, thì hành vi tâm lý và xã hội của người đó tất nhiên sẽ lành mạnh, sức khỏe thể chất là kết quả tất yếu. Thực ra, y học cổ truyền Trung Hoa hoàn chỉnh và các phương pháp tu luyện chân chính không chỉ bao hàm mô hình này, mà còn cung cấp cả một bộ phương pháp khả thi, đáng được trân trọng, kế thừa, và phát huy mạnh mẽ.
VI. Hướng gợi mở cho chăm sóc sức khỏe và trị liệu tương lai từ cuộc khảo sát y học
Có thể xem chăm sóc sức khỏe ngày nay chủ yếu là một hệ thống xây dựng trên nền tảng công nghệ y học hiện đại (chủ yếu là dùng thuốc, xạ trị, và phẫu thuật), do các chuyên gia y tế cung cấp. Hiện nay, công tác chăm sóc sức khỏe đại chúng là một gánh nặng và ngày càng nặng đối với mọi chính phủ. Bởi vì sự phát triển của công nghệ y tế không nâng cao được hiệu quả trị liệu một cách toàn diện và căn bản, mà ngược lại còn khiến chi phí y tế tăng cao. Do đó, giảm chi phí y tế hiện nay cũng quan trọng không kém việc nâng cao hiệu quả trị liệu. Đồng thời, chi phí y tế cao ngất ngưởng hiện nay không thể tránh khỏi tình trạng đẩy người có thu nhập thấp ra khỏi hệ thống y tế. Vì vậy, làm sao để nâng cao tỷ lệ chi phí y tế trên hiệu quả trị liệu, làm sao để cung cấp dịch vụ y tế hiệu quả với mức chi phí chấp nhận được cho mọi tầng lớp xã hội, là một mục tiêu khá quan trọng đối với bất kỳ chính phủ nào. Ngoài ra, y học hiện đại đã thay đổi cách lý giải của con người ngày nay về bệnh tật và sức khỏe. Người ta cho rằng công nghệ y tế ngày càng tiên tiến, thì mọi người càng phụ thuộc vào công nghệ y tế, chuyên gia y tế, và các yếu tố bên ngoài khác, với hy vọng sự phát triển của khoa học và y học có thể giúp con người tiếp tục thỏa mãn những thói quen xấu mà vẫn có thể tránh được nỗi khổ bệnh tật, chứ không tự thân nỗ lực, thực sự có trách nhiệm với sức khỏe của mình, mà ngược lại, càng buông thả bản thân hơn.
Từ những đặc điểm về hiệu quả trị bệnh khỏe người nhờ tu luyện Pháp Luân Công kể trên, có thể thấy rằng Pháp Luân Công mang đến cho xã hội một hệ thống “tự chăm sóc sức khỏe” hiệu quả cao mà không tốn kém thông qua hình thức tu luyện. Thông qua tu luyện, các học viên có nhãn quan khác về cuộc sống và sức khỏe so với người không tu luyện, từ đó có thể có trách nhiệm với sức khỏe và cuộc sống của mình, thực sự thay đổi hành vi của mình.
Nói một cách đơn giản, tu luyện Pháp Luân Công là “tính mệnh song tu”, gồm hai phần: phần quan trọng nhất là tu tính — tức là tu luyện tâm tính, đưa nguyên tắc chỉ đạo “Chân-Thiện-Nhẫn” vào mọi mặt trong cuộc sống thường nhật của người tu luyện. Tu luyện Pháp Luân Công coi tâm tính là then chốt để trị bệnh khỏe người và tăng trưởng công; kết hợp với luyện công để cải biến thân thể — tu mệnh, trong năm bài công pháp có bài động công, bài tĩnh công đứng, và tĩnh công đả tọa.
Pháp Luân Công là một hệ thống tu luyện với mục đích cao hơn mục đích trị bệnh khỏe người, nhưng như các cuộc điều tra kể trên cho thấy, tu luyện Pháp Luân Công cũng có thể đạt hiệu quả kỳ diệu ở tầng diện trị bệnh khỏe người. Ở tầng diện này, có thể coi tu luyện Pháp Luân Công là một hệ thống “tự chăm sóc sức khỏe” hoặc “tự hoàn thiện bản thân”. Cụ thể, tu luyện Pháp Luân Công có thể được coi là một hệ thống “tự chăm sóc sức khỏe” về nhiều phương diện, trong đó “tinh thần và vật chất là một”, đồng thời có hiệu quả tốt trong việc phòng và trị bệnh. Tính đa diện thể hiện ở cấp độ cá nhân, gia đình, và cộng đồng; ở cấp độ cá nhân cũng thể hiện ở nhiều mặt như sinh lý, tâm lý, và tinh thần. Học viên có trách nhiệm với sức khỏe và sinh mệnh của mình, dùng “Chân-Thiện-Nhẫn” để chỉ đạo cuộc sống hàng ngày, có cái nhìn đúng đắn về được-mất trong cuộc sống, bớt lo âu; bỏ được những thói quen xấu; mà lo âu và thói quen xấu là những yếu tố có nguy cơ cao gây nhiều bệnh nặng mà y học hiện đại đã nhận thức được. Điều mà y học hiện đại chưa nhận thức được là ảnh hưởng trực tiếp của tâm lý và tinh thần đối với sinh lý của cá nhân; về phương diện này, các học viên Pháp Luân Công lại nhận thức được và thông qua tu tâm tính để có được trạng thái tâm lý và tinh thần tốt. Đồng thời, luyện công còn có thể cải biến thân thể, khi có bệnh thì có thể thông qua luyện công để loại bỏ hoàn toàn bệnh tật; khi không có bệnh lại có thể tăng cường đáng kể khả năng kháng bệnh. Từ góc độ y học cổ truyền, luyện công không chỉ có thể khai thông và mở rộng kinh lạc, mà còn có thể chuyển hóa năng lượng ở tầng thấp là “khí” thành năng lượng ở tầng cao là “công”; đây là điều mà ngay cả y học cổ truyền Trung Hoa cũng không thể làm được.
Y học hiện đại, khi tự nhìn nhận lại những hạn chế của mình, cũng đã đề xuất mô hình chăm sóc sức khỏe mới “sinh lý – tâm lý – xã hội – tinh thần”. Tuy nhiên, như đã trình bày bên trên, y học hiện đại không chỉ thiếu biện pháp có tỷ lệ chi phí – hiệu quả cao trong việc điều trị các bệnh sinh lý, mà ở các phương diện khác cũng chưa có biện pháp nào tốt. Vì vậy, thông tin từ các cuộc điều tra về hiệu quả trị bệnh khỏe người của việc tu luyện Pháp Luân Công tại Trung Quốc Đại lục, Bắc Mỹ, và Đài Loan từ năm 1998 đến 2002 là điều đáng để hệ thống chăm sóc sức khỏe hiện đại suy ngẫm, đồng thời, cũng đáng để tiến hành nghiên cứu sâu hơn dựa trên các cuộc điều tra kể trên.
Tài liệu tham khảo:
1.Trends in Alternative Medicine Use in the United States, 1990-1997: Results of a… Eisenberg et al. JAMA.1998; 280: 1569-1575.
3. Encounter with Qi, By David Eisenberg (M.D.), Thomas Lee Wright, 1985
4. Trình bày sự thật với lịch sử — Nhân dịp kỷ niệm một năm sự kiện “20/7” bàn về ‘10.000 ca’ https://search.minghui.org/mh/articles/2000/8/3/3315p.html
5. Hormone Treatment Shows Increased Risks; Study Stopped (https://zhengjian.org/zj/articles/2002/7/10/16751.html)
6. 235 North American Cases Falun Gong Health Research Report
7. Barsky AJ, Saintfort R, Rogers MP, Borus JF. Nonspecific medication side effects and the nocebo phenomenon. Jama 2002; 287(5): 622-7.
8. Enard W, Khaitovich P, Klose J, Zollner S, Heissig F, Giavalisco P, Nieself-Struwe K, Muchmore E, Varki A, Ravid R and others. Intra- and interspecific variation in primate gene expression patterns. Science 2002; 296: 340-343.
9. Beecher H. The powerful placebo. JAMA 1955; 159: 1602-1606.
10. Shapiro AK. Placebo effects in medicine,psychotherapy, and psychoanalysis. In: Bergin A, Garfield S, editors. Handbook of psychotherapy and behavior change. New York: Wiley and Sons; 1971.
11. Benson H, Epstein MD. The placebo effect. A neglected asset in the care of patients. Jama 1975; 232(12): 1225-7.
12. Stefano GB, Fricchione GL, Slingsby BT, Benson H. The placebo effect and relaxation response: neural processes and their coupling to constitutive nitric oxide. Brain Res Brain Res Rev 2001; 35(1): 1-19.
13. Walsh BT, Seidman SN, Sysko R, Gould M. Placebo response in studies of major depression: variable, substantial, and growing. Jama 2002;287(14):1840-7.
14. Schweiger A, Parducci A. Nocebo: the psychologic induction of pain. Pavlov J Biol Sci 1981; 16(3): 140-3.
15. Falun Dafa – Science of Body, Spirit and Soul, by Yang Jingduan, MD.
16. “It’s not just the genes”. Science 296: 495, April 26, 2002.
17. Walter C. Willett: “Balancing Life-Style and Genomics Research for Disease Prevention”. Science 296:695-698, April 26, 2002.
18. Torrey EF, Miller J. The invisible plague: The rise of mental illness from 1750 to the present; 2001.
19. Schuster MA, Stein BD, Jaycox L, Collins RL, Marshall GN, Elliott MN, Zhou AJ, Kanouse DE, Morrison JL, Berry SH. A national survey of stress reactions after the September 11, 2001, terrorist attacks. N Engl J Med 2001;345(20):1507-12.
20. Galea S, Ahern J, Resnick H, Kilpatrick D, Bucuvalas M, Gold J, Vlahov D. Psychological sequelae of the September 11 terrorist attacks in New York City. N Engl J Med 2002; 346(13): 982-7.
21. Vlahov D, Galea S, Resnick H, Ahern J, Boscarino JA, Bucuvalas M, Gold J, Kilpatrick D. Increased use of cigarettes, alcohol, and marijuana among Manhattan, New York, residents after the September 11th terrorist attacks. Am J Epidemiol 2002; 155(11): 988-96.
22. Goodnouch A. Post-9/11 pain found to linger in young minds. New York Times 2002 May 20.
23. AP. Post-trauma stress plagues NYC kids. MSNBC 2002; https://www.msnbc.com/news/746411.asp.
24. Discussing Chinese Medical Science and Its Function in the Modern Society (FSC-007), by Yang Jingrui
25. Lawrence M. Tierney, Jr.,Stephen J. McPhee and Maxine A. Papadakis: Current Medical Diagnosis & Treatment 2001, McGraw-Hill
Bản quyền © 1999-2025 Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.
Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2003/4/28/法轮功与健康(下)-49189.html
Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2011/3/12/123760.html