Bài viết của đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc đại lục

[MINH HUỆ 07-05-2025] Nhớ lại những năm tháng gian nan khi chứng thực Pháp mà tôi đã trải qua, mỗi bước tiến về phía trước, đều không tách rời sự từ bi gia trì và bảo hộ của Sư tôn vĩ đại. Tại đây đệ tử xin khấu bái Sư tôn, Sư phụ à! Cảm tạ Ngài, cảm tạ Ngài đã chọn đệ tử làm đồ đệ Đại Pháp của Ngài, cảm tạ ơn từ bi cứu độ của Ngài, cảm tạ Ngài dẫn dắt đệ tử trên con đường phản bổn quy chân, đưa con trở về nhà.

Năm 1998, tôi vui mừng đắc Đại Pháp, khi ấy tôi hơn 40 tuổi, mỗi ngày được đắm trong ánh quang của Pháp, tâm trạng xúc động không cách nào diễn tả, tôi cảm thấy bản thân quá may mắn, là người hạnh phúc nhất thế gian.

Tháng 7 năm 1999, tà ác đã phát động cuộc bức hại đối với Đại Pháp, Sư phụ cũng bị công kích bởi những lời dối trá ác độc. Tôi không thể ở trong nhà được nữa, quyết định bước ra ngoài, đến Bắc Kinh để chứng thực Pháp.

Dưới đây, tôi xin viết ra trải nghiệm này để chứng thực sự vĩ đại của Đại Pháp và từ bi của đệ tử Đại Pháp.

Cuối mùa thu năm 2000 ấy, khi gió Bắc mang theo những bông tuyết, tôi chuẩn bị đơn giản một cái túi, quyết định đi đến Bắc Kinh. Khoảnh khắc đóng cửa lại, trong tâm tôi muôn phần khó chịu, không biết đi lần này khi nào mới có thể trở lại. Khi mấy đồng tu chúng tôi ngồi trên xe lửa đến Bắc Kinh thì hết thảy mọi thứ đều đã buông bỏ, tôi phải đi thực hiện sứ mệnh và trách nhiệm thần thánh của mình.

Tôi đã ở lại Bắc Kinh gần bốn tháng, cứ cách vài hôm lại chuyển nơi ở mới, khó khăn thế nào thì nghĩ là biết. Dưới áp lực cao, mọi người đều đang làm những việc bản thân mình nên làm để chứng thực Đại Pháp, cứu độ chúng sinh.

Sư phụ giảng:“Tu tại tự kỷ, công tại Sư phụ” (Chuyển Pháp Luân), hết thảy đều là Sư phụ an bài. Đồng tu ở Bắc Kinh sắp xếp chỗ ở, phòng của chúng tôi không đến 10 người, tuổi tác không giống nhau. Mỗi ngày mọi người đều ra ngoài, người thì phun chữ, người đi dán, người phát tài liệu, người viết phong thư, người treo băng rôn. Trời còn chưa sáng, chúng tôi đã ra ngoài. Sau khi dán miếng ‘Trả lại thanh danh cho Sư phụ’, khoảnh khắc đó, tôi thấy trong tâm thật nhẹ nhõm, cuối cùng tôi có thể nói câu công đạo cho Sư phụ rồi.

Một hôm, tôi đang dán tờ rơi trong một khu dân cư, vì mất nhiều thời gian nên bị người ở chốt bảo vệ phát hiện. Hai cảnh sát đưa tôi đến đồn cảnh sát khu vực, tôi và mấy tù nhân nam bị giam trong một phòng, nhưng phòng không có cửa, ở giữa chỉ có một vạch ngăn dưới sàn. Tới khuya, cảnh sát ra ngoài uống rượu cũng đã về, một cảnh sát lại chỗ tôi nói chuyện, có lẽ anh ta là đồn trưởng. Tôi nói với anh ta: “Hãy để tôi ra ngoài, tôi sẽ quét dọn vệ sinh cho các anh.” Anh ta không đồng ý, có thể vì sợ tôi chạy mất, bèn sắp xếp một người trông chừng chúng tôi, còn họ thì rời đi. Tôi bèn nói với người cảnh sát này: Anh để tôi ra ngoài đi! Anh ta đã đồng ý. Người cảnh sát này rất thiện lương, tôi bèn giảng chân tướng cho anh ta, sau đó anh ta hỏi: “Công đó của các vị luyện thế nào?” Tôi liền chỉ anh ra học động tác của bài công Pháp số năm. Anh ta uống rượu nên dần dần ngủ mất. Đến khi trời vừa tờ mờ sáng, tôi lặng lẽ mở cửa phòng, nhẹ nhàng đi ra ngoài, còn nghe thấy tiếng nước chảy ở phòng khác, vậy mà không ai phát hiện ra tôi, tôi liền bỏ chạy. Đây đều là Sư phụ đã giúp tôi, tôi lại trở về chỗ ở cũ.

Tuy nhiên chưa được mấy ngày, chú chủ nhà đã đến nói: “Các cháu nhanh đi đi!” Vì nhân viên khu dân cư hỏi chú ấy, người thuê phòng của ông làm gì? Chú ấy rất sợ, nên muốn chúng tôi nhanh chóng rời đi. Chúng tôi nghĩ, cần phải lập tức rời đi, đã rất không an toàn rồi, bởi vì mỗi ngày chúng tôi đi qua cửa bảo vệ, đã khiến họ chú ý. Thế là chỉ hai, ba đồng tu trong chúng tôi ở lại để dọn dẹp đồ đạc, còn những người khác nhanh chóng rời đi.

Lại đến một chỗ ở mới, nơi này khá đông người, khoảng hơn 30 người, là khu vực tản mác, không có bảo vệ. Mọi người đều rất tinh tấn, sáng sớm luyện công tập thể, buổi tối học Pháp tập thể, ban ngày mọi người sẽ làm những việc bản thân cần làm. Không ai hỏi ai họ gì, tên gì, dẫu từ đâu đến đều tùy kỳ tự nhiên chủ động kết hợp với nhau, tốp năm tốp ba ra ngoài làm việc. Lúc này, Bắc Kinh đã rất nghiêm ngặt, có người ngồi xe buýt cũng bị kiểm tra thẻ căn cước. Có một lần tôi và một đồng tu đến một tòa nhà chuẩn bị phát tài liệu. Tôi đi đến cửa thì có một người đàn ông, mặc áo khoác quân đội, ở đó giả vờ đọc báo, tôi lên đến tầng hai liền cảm thấy có gì đó không ổn, tôi liền không phát nữa, tìm đồng tu nhanh chóng chạy đi. Chúng tôi chạy ra ngoài được ba, bốn mét, thì nhìn thấy anh ta đang đứng ở đó gọi điện thoại, còn nhìn chúng tôi. Cả hai chúng tôi bắt taxi chạy mất. Sau đó, đồng tu này đi mua vải để làm băng rôn, buổi tối không thấy quay về. Khi tôi phát hết tài liệu trở về, vừa hay đi ngang qua đồn cảnh sát khu vực Phan Gia Viên, tôi giật mình, nín thở, lặng lẽ đi qua, bởi vì đồn cảnh sát này rất tà ác, tôi đọc được trên tuần san rằng họ đã đánh chết một đồng tu trong chúng tôi.

Vì đông người quá, nên ăn cơm cũng thành vấn đề, nhưng mọi người đều rất tự giác, đều chủ động đi mua đồ, mua một số loại như màn thầu, dưa muối, rau chân vịt và nấu chút canh. Như vậy chúng tôi cũng đã rất hài lòng rồi. Có nơi để ở, có đồ để ăn, có thể làm việc chứng thực Pháp là đã hài lòng rồi.

Hồi đó, người dân Bắc Kinh cũng chưa minh bạch chân tướng nên đều rất mẫn cảm và luôn cảnh giác, thấy tầng dưới nhà mình có người lạ, thì liền để ý. Sau đó, chúng tôi đã thay đổi, ra ngoài khi trời còn chưa sáng, thậm chí cử động rất nhẹ nhàng, nhưng bọn họ cũng biết, có khi còn có chó sủa. Có khu dân cư mà bảo vệ đặc biệt chú ý, tôi vừa đi vào lúc sáng sớm thì họ đã bắt cóc tôi rồi. Khi ấy, thường xuyên có đồng tu ra ngoài vào buổi sáng nhưng đến tối thì không trở về nữa.

Một hôm, chúng tôi đang ở trong phòng làm băng rôn, bên ngoài có người gõ cửa, hỏi: “Mấy người đang làm gì vậy? Mở cửa ra” Chúng tôi đều không dám trả lời, không lên tiếng, cũng không dám cử động, họ đứng hồi lâu không thấy có người trả lời thì bỏ đi. Khi chúng tôi xác nhận là họ đã thật sự đi rồi, liền bắt đầu lặng lẽ thu dọn đồ đạc, khẩn trương nhanh chóng chuẩn bị rời đi.

Chúng tôi ở một căn hộ mới của đồng tu ở Bắc Kinh, dân cư vẫn chưa dọn đến nhiều, có thể là do chúng tôi đông người quá, đi vệ sinh buổi sáng và buổi tối xả nước, khiến bọn họ nghi ngờ. Vài người chúng tôi khe khẽ đi ra ngoài, trong tâm sợ hãi, mắt đều không dám nhìn hai bên, chỉ dám dùng khóe mắt liếc nhìn xung quanh, rồi cứ thế bước vô định về một hướng. Sau đó, chúng tôi lên xe, đến một nơi rất xa mới xuống xe, rồi ngồi ở một chỗ nào đó. Nhớ lại hồi ấy rất sợ, dường như các tế bào của toàn cơ thể đều đang sợ hãi, tim đập thình thịch. Sau đó, nghe đồng tu nói, sau khi chúng tôi rời đi, đã có xe cảnh sát đỗ ở đó.

Đi cùng tôi có sáu đồng tu địa phương, chúng tôi đã chia tay nhau từ sớm, sau đó không biết ở một nơi nào đó lại gặp nhau, chúng tôi đều nói rằng mọi người đều làm không dễ dàng. Nhớ lại hôm đó chúng tôi đi lòng vòng mấy tiếng đồng hồ, cuối cùng đồng tu ở Bắc Kinh đã sắp xếp chỗ ở cho chúng tôi.

Tôi đã ba lần đến Thiên An Môn, lần đầu tiên đến là căng băng rôn. Nhớ lại tối hôm trước, tà ác ở không gian khác đã ngăn trở, hù dọa tôi: “Ngươi mà đi thì sẽ đập vỡ đầu ngươi.” Cây dùi cui điện đang vung vẩy trên đầu tôi, nhưng tôi không sợ nó. Ngày hôm sau, ăn sáng xong, tôi và mấy vị đồng tu đi đến Thiên An Môn, mở băng rôn và hô lớn “Pháp Luân Đại Pháp hảo”. Theo sau liền có cảnh sát mặc thường phục đến, khống chế chúng tôi, đẩy chúng tôi vào xe cảnh sát và đưa đến đồn cảnh sát khu vực gần đó. Chưa đến nơi, tôi đã thấy khuôn mặt của một đồng tu bê bết máu, máu nhuộm đỏ chiếc áo khoác trắng của anh ấy.

Tiến vào trong phòng thì thấy, a! đông người quá. Hàng lang đứng chật kín hai hàng người. Họ đều đang đọc lớn “Hồng Ngâm” của Sư phụ, người này đọc đến người kia đọc, một lúc sau có một cảnh sát đến, yêu cầu chúng tôi ký tên, hỏi chúng tôi từ đâu đến, chúng tôi đều không báo địa chỉ. Mỗi người đều ký lên bốn chữ “đệ tử Đại Pháp”, khoảnh khắc đó tôi cảm thấy vô cùng tự hào và vinh hạnh. Bản thân tôi có thể làm đệ tử Đại Pháp, đệ tử của Sư tôn vĩ đại là may mắn biết bao! Thật là quá may mắn rồi.

Khi ấy, đồng tu đến Thiên An Môn khá đông, nhưng từng xe từng xe đưa đi. Tôi bị đưa đến huyện Viễn Khánh, Bắc Kinh, và bị nhốt trong một căn phòng trống không, chỉ có một cái đệm hơi. Chúng tôi bèn tháo giày ngồi lên. Không lâu sau, cảnh sát đến kéo từng người chúng tôi ra ngoài, cũng không cho chúng tôi đi giày. Chúng tôi bị tát một trận ở hành lang, rồi bị đưa đến đồn cảnh sát khu vực, chân trần đi trên mặt băng trên đường, nhưng chúng tôi không cảm thấy lạnh chút nào. Chính là Sư phụ từ bi đang gia trì!

Sau khi vào phòng, hai cảnh sát kia cũng không nói gì, tôi thấy hai người họ không lên tiếng bèn nói: “Chúng tôi đều là người tốt, Pháp Luân Đại Pháp dạy con người theo ‘Chân-Thiện-Nhẫn’ làm người tốt, toàn thế giới đều đang đọc “Chuyển Pháp Luân”. Các vị mở cuốn sách đó ra mà xem, không có một câu nào dạy làm người xấu.” Lúc này, anh ta liền cầm dùi cui điện bắt đầu chích điện tôi. Khi ấy tôi cũng không sợ hãi, liền nhẩm:

“Sinh vô sở cầu
Tử bất tích lưu
Đãng tận vọng niệm
Phật bất nan tu”

(Vô tồn, Hồng Ngâm)

Có lẽ, khi ấy, tôi coi bản thân là người tu luyện, Sư phụ liền bảo hộ tôi, một lúc sau bọn họ đã dừng tay. Lần này các đồng tu chịu đựng cũng rất lớn. Có người bị đánh bầm tím cả mắt, có người bị điện giật rộp lên những bóng nước lớn, có người bị lôi ra ngoài trời đông hàng giờ đồng hồ mới được quay lại. Vừa lạnh vừa đói. Không ai cho chúng tôi đồ ăn, nước uống. Ngày hôm sau bọn họ đi làm, lại lôi chúng tôi ra ngoài bức hại, rồi đưa chúng tôi đến một trại tạm giam không rõ tên. Trước khi rời đi, tôi trông thấy có một hàng giày xếp trên mặt đất không có người đi, các đồng tu đã không quay lại, không biết họ đang ở đâu và đã chịu đựng bức hại như thế nào, trong tâm tôi rất lo lắng cho họ.

Đến trại tạm giam, tôi thấy rất nhiều đồng tu đến từ các địa phương khác nhau. Mọi người ngồi cạnh nhau cùng giao lưu thể ngộ chứng thực Pháp. Một đồng tu trẻ còn mua cho chúng tôi một chiếc chăn cao cấp. Nhưng đến tối, chúng tôi đã bị chia ra. Tôi và ba đồng tu bị giam trong một căn phòng không có lò sưởi (kỳ thực các phòng đều không có lò sưởi). Trên chiếc giường xi măng trống không vốn đã rất lạnh khi không có chăn, bọn họ còn đặt một chiếc quạt điện cạnh cửa cho thổi gió lạnh về phía chúng tôi. Tôi mặc một chiếc áo bông không dày, lúc thì đắp lên người, lúc thì trải dưới đất; không đắp thì lạnh phía trên, không trải thì lạnh dưới đất.

Ngày hôm sau, chúng tôi lại bị gọi ra ngoài, chở mấy xe người đi đâu không rõ (toàn là xe con), cũng không biết đã chạy bao lâu, cuối cùng đưa chúng tôi tới một ngọn núi lớn. Sau khi xe dừng lại, họ nói: “Ai luyện thì xuống xe, ai không luyện thì không cần xuống xe” Tất nhiên mọi người đều luyện rồi! Nên đều xuống xe. Sau khi xuống xe chúng tôi cũng không biết phải đi đâu, nên cứ chạy lên núi, sợ bị bọn họ bắt trở lại, sau một lúc quay đầu lại nhìn, bọn họ đều đã rời đi, chúng tôi mới cảm thấy nhẹ nhõm. Từ trên núi xuống đến đường lớn, chúng tôi đã quyết định cứ theo đường mà quay về. Một lát sau, từ trong núi xuất hiện một chiếc xe tải, khi đến gần chúng tôi thì xe dừng lại, trong bên có người nói: “Các vị đi đâu vậy?” Chúng tôi liền nói đi đến ga xe lửa, anh ấy nói: “Hãy còn xa lắm, tôi chở các vị đi vậy! Lên xe đi!” Mọi người vô cùng vui mừng, vừa kinh sợ vừa hạnh phúc. Là Sư phụ an bài người đến đón chúng tôi! Sau khi đến ga, chúng tôi cảm ơn anh ấy, và lại ngồi trên tàu hỏa đến Bắc Kinh, đi chứng thực Pháp.

Lần thứ hai đến Thiên An Môn, tôi phối hợp cùng các đồng tu căng băng rôn (dài 99 mét, bên trên thêu bài thơ trong Hồng Ngâm của Sư phụ). Chúng tôi đứng đợi ở đó đúng giờ đã định. Hôm ấy người trên quảng trường rất nhiều, gió thổi rất mạnh. Có người thả diều, có người chụp ảnh. Cảnh sát mặc thường phục cũng rất nhiều, bên cạnh tôi cũng có, có lúc anh ta nhìn tôi, tôi liền giả vờ như không biết vậy. Lúc thì nhìn diều trên trời, lúc thì chụp ảnh. Bầu không khí mười phần lo lắng, dường như không khí đều ngưng lại, tĩnh tĩnh chờ các đồng tu đến. Ngoảnh đầu lại nhìn, một chiếc vali da được đặt xuống đất, một đồng tu đang lấy băng rôn ra, khi này chúng tôi có người rải tài liệu, rải cả quả bóng bàn. Mục đích là làm cảnh sát lao đến chỗ chúng tôi, như thế đồng tu có thể mở băng rôn ra. Lúc này, có mấy cảnh sát thường phục lao đến, giữ chúng tôi rồi vừa đấm vừa đá. Tôi bị họ ấn lưng xuống mà đứng thẳng lên được, nhưng tôi vẫn nhìn thấy đồng tu căng băng rôn lên. Đi hướng đến trung tâm Quảng trường Thiên An Môn. Hành động vĩ đại này làm chấn động toàn thể khung vũ.

Chúng tôi bị đưa đến một nơi không rõ tên. Trong mỗi phòng đều là các đồng tu của chúng tôi. Bên trong rất bẩn, bụi rất dày, nhà vệ sinh chỗ nào cũng có phân. Chúng tôi đã yêu cầu họ cung cấp dụng cụ để quét dọn sạch sẽ từng góc của nơi này. Tôi lê cái chân đã bị họ đánh thương nhưng vẫn làm việc được. Công này của chúng ta tốt như vậy, thiện như vậy, tôi nghĩ hành vi của chúng tôi thì bọn họ cũng có thể nhớ trong tâm.

Đồng tu bị bức hại ở đâu cũng như nhau cả. Tôi thường nghe tiếng dùi cui điện tách tách từ các phòng khác. Đến 11 giờ đêm, bọn họ nhận được thông báo, chuẩn bị thả người (không phải toàn bộ). Vì tôi bị đánh nghiêm trọng hơn (mặt và chân đều bị thâm tím), nên họ để tôi ra ngoài trước, còn có một bác gái ở Sơn Đông (tôi ngộ rằng Sư phụ đã an bài cho bác ấy chăm sóc tôi). Sau khi chúng tôi ra khỏi cổng lớn, vì đã khuya nên chỉ có thể tìm một chỗ để ở. Bác gái đỡ tôi vào một nhà trọ, họ hỏi có thẻ căn cước không? Chúng tôi nói không có, cô ấy nói: “Kiểm tra nghiêm ngặt lắm, không có thẻ căn cước thì không ở được, ở đây thường xuyên có người đến kiểm tra.” Chúng tôi và cô ấy thương lượng với nhau, nhờ cô ấy giúp đỡ chiếu cố một chút. Người này rất thiện lương, liền để chúng tôi ở tại đây, nhưng sáng hôm sau phải rời đi sớm. Có thể cô ấy nhìn tình trạng tôi như vậy nên đã mềm lòng, hai người chúng tôi nghỉ ngơi trên chiếc giường đơn trong vài tiếng đồng hồ, ngày hôm sau, từ sớm chúng tôi đã rời đi, một là vì an toàn, hai là vì không muốn chủ nhà trọ gặp rắc rối.

Bác gái phải đi nơi khác, nên sau đó chúng tôi đã chia tay. Dưới sự an bài của Sư phụ, tôi lại tìm được một cặp vợ chồng đồng tu. Căn phòng này ở được năm người, trong đó có vị là nữ đồng tu trẻ ở Cát Lâm. Cặp vợ chồng ôm một đứa con mấy tháng tuổi bước ra chứng thực Pháp. Chồng cô ấy đã sớm mất tích do phun sơn chân tướng. Vị đồng tu này rất xuất sắc, không quá đau buồn, cần làm gì thì làm đó. Có khi cõng con đi phát tài liệu, có khi chúng tôi trông con cho cô ấy. Tôi vì đau chân, không đi phát được nữa, nên chỉ đi bỏ thư vào hòm thư. Tôi không biết hòm thư ở đâu, mỗi khi ngồi xe buýt ra ngoài, Sư phụ luôn cho tôi nhìn thấy hòm thư, tôi xuống xe liền bỏ được thư vào.

Ngoài đi giảng chân tướng, chúng tôi không ai ra ngoài cả. Có một đồng tu mang đồ ăn đến cho chúng tôi. Không thể ở nơi này quá lâu, vì an toàn, đồng tu muốn tôi mang đứa bé của đồng tu ấy đến ở nơi khác. Chúng tôi đến ở một ký túc xá đại học, trường đại học đang trong kỳ nghỉ nên không có người khác, chỉ có hai người chúng tôi. Ngoài nấu cơm, tôi chỉ học Pháp luyện công, rồi lại học Pháp luyện công. Vì không ra ngoài được, không gặp các đồng tu khác nên rất tịch mịch. Khi ấy đúng là để tôi nếm trải cái khổ của sự tịch mịch, cũng chân chính thể ngộ được thế nào là tịch mịch? Bởi vì ngày qua ngày cứ lặp đi lặp lại những việc giống nhau.

Sau này khi chân tôi đỡ hơn, tôi nghĩ: Mình đến đây làm gì? Đến chứng thực Pháp, vậy thì hoặc là chứng thực Pháp, hoặc là về nhà đi. Về nhà thì không cam tâm. Thế là tôi đã lại ra ngoài. Người Bắc Kinh rất mẫn cảm, tôi đến một tòa nhà để phát tài liệu, họ thấy tôi là người lạ, thì sẽ để ý. Vì vậy tôi luôn đi lên và xuống rất nhanh. Nhớ lại có một lần tôi mới lên lầu, thì có một ông lão đi theo sau. Tôi liền giả vờ buộc dây giày, ông ấy hỏi tôi tìm ai? Tôi không lên tiếng, liền vội vàng xuống lầu, ông ấy cũng đuổi phía sau. Khi ấy, tôi vội vàng lấy tờ thông báo mất tích ra, vừa chạy vừa nói: “Tôi đi tìm người!” Khi tôi đã ngồi trên xe, mà họ vẫn đứng đó nhìn! Thế mới nói chứng thực Pháp ở Bắc Kinh quả thật rất khó.

Có một hôm, trời còn chưa sáng, tôi đã đi cùng một nam đồng tu đến một khu dân cư phát tài liệu. Mới lên tầng ba, trực giác bảo tôi rằng, không an toàn. Tôi bèn không phát và đi xuống, lúc này cảnh sát đến bắt cóc tôi và đưa tới một đồn cảnh sát khu vực. Đầu tiên họ chích điện tôi bằng dùi cui điện. Sau đó hỏi tôi đến từ đâu? Tên là gì? Làm tài liệu ở đâu? Ở chỗ nào? Tôi nói rằng không biết. Họ liền chở tôi ra ngoài để tìm. Đi hết con phố này đến con phố khác. Tôi đều nói là không phải, không giống. Bọn họ rất tức giận nên đã đưa tôi trở về. Họ bắt tôi trồng cây chuối ở hành lang, chưa được mấy phút tôi đã không chịu nổi. Đến tối, họ đưa tôi đến trại tạm giam.

Nửa đêm, trong trại tạm giam, có một cảnh sát đứng trước cửa buồng giam lớn tiếng gọi tên tôi. Tôi phải đi cùng anh ta, đi qua hết tầng này đến tầng kia, qua phòng này đến phòng kia. Không biết anh ta muốn làm gì, trong tâm tôi rất sợ hãi. Tôi thầm nghĩ, sẽ không phải là tra tấn bức cung chứ. Cuối cùng đến một căn phòng, anh ta bảo tôi ngồi xuống, hỏi tôi mấy vấn đề đơn giản, ghi chép lại, rồi đưa tôi quay lại phòng giam. Đúng là một phen hú hồn.

Bởi vì trại tạm giam quá đông người nên không nhận thêm người được nữa, ngày hôm sau họ đưa chúng tôi đến trạm điều phối ở Bắc Kinh. Nơi này có tường cao, hàng rào điện, cánh cổng sắt lớn màu đen, vô cùng tà ác và đáng sợ. Cổng lớn vừa mở ra đã thấy mấy cảnh sát cầm dùi cui điện đứng đó. Chúng tôi vừa bước vào, họ liền bắt chúng tôi ngồi xổm, rồi dí dùi cui điện vào lưng chúng tôi. Nói rằng đây là quy định của nhà tù. Sau khi đưa chúng tôi đến sân chơi, họ bắt chúng tôi cởi hết quần áo để kiểm tra. Mùa xuân tháng Hai, gió Bắc gào rít. Chúng tôi lạnh đến mức run cầm cập. Bọn họ kiểm tra xong cũng không cho chúng tôi mặc quần áo. Cũng không biết khi nào mới cho chúng tôi mặc đồ. Chờ phân người đến các buồng thì đã hơn một giờ chiều.

Cảnh sát ở nơi này rất tà ác, mỗi ngày đều cầm dùi cui điện đi tới đi lui. Chỉ có ba phút để đi vệ sinh, không có thời gian đánh răng rửa mặt. Vừa ngồi đi vệ sinh vừa đánh răng. Giờ nghỉ buổi tối, chỉ cần có tiếng chuông vang lên, thì cảnh sát lập tức đến các buồng kiểm tra, nên phải lập tức nằm xuống, đợi họ đi qua rồi mới lại đứng dậy. Chúng tôi ngủ dưới gầm giường, có lót một tấm ván. Ban ngày thì gói đũa vệ sinh. Không có việc gì thì phải đi đều bước, đến cả cụ bà cao tuổi cũng phải thực hiện, bước không đúng sẽ bị đánh chửi. Bọc xong đũa còn phải mang đến nhà kho. Tôi là người nhỏ con, vác một cái bao tải thật sự rất vất vả.

Tôi quen một đồng tu Bắc Kinh, cổ bị sưng to vì bị chích điện. Khi đến giờ ăn, chúng tôi phải xếp hàng từ trong phòng đi ra sân để nhận cơm, đến lượt ai thì người đó phải quỳ xuống, dùng cả hai tay nâng bát cơm lên trên đầu, sau đó còn phải nói: Xin phép nhân viên quản giáo nào đó cho ăn cơm thì mới được cho cơm.

Nhớ lại, tôi đã ở trong đó một tuần, bởi vì khi ấy, đồng tu bước ra khá nhiều, trại tạm giam không đủ chỗ, tôi bị đưa đến trạm điều phối. Trạm điều phối không có chỗ thì đưa đến trại lao động. Chính vào thời điểm này, tôi bị đưa đến Trại Lao động Cải tạo Nữ Tân An ở Bắc Kinh và bị lao động cải tạo phi pháp một năm sáu tháng. Trên đây là một vài những gì tôi đã trải qua khi chứng thực Pháp tại Bắc Kinh.

Sư phụ giảng:

“Để độ chư vị, Phật đã đi xin ăn nơi người thường” (Chân Tu, Tinh Tấn Yếu Chỉ)

Chút khổ này của tôi có đáng là gì? Nhớ lại khi ấy, tôi không cảm thấy khổ, không có khóc, không bi thương, không nghĩ đến gia đình, con cái, chỉ có an tâm. Bởi vì tôi đang làm những việc nên làm, duy hộ Đại Pháp, đoái hiện thệ ước của bản thân. Đây là điều vui nhất của tôi, con đường một khi đã chọn thì nhất định sẽ bước tiếp.

Phụ trách biên tập: Lâm Hiểu

Bản quyền © 1999-2025 Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2025/5/7/488200.html

Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2025/7/8/228780.html